Trà xanh (lục trà) là loại trà không trải qua quá trình oxy hóa như trà đen và trà oolong. Trà xanh có nhiều hình dạng khác nhau: lá dài nhọn, lá dẹp, vo xoắn, vo viên như hình thuốc súng…; màu sắc thường là màu xanh xám, xanh đen, xanh nhạt hơi vàng nhưng khi pha nào nước lá trà cho màu xanh lục tươi sáng đẹp mắt, nước trà cũng có màu xanh hoặc xanh vàng, vị tươi hơi chát.
Trà xanh là loại trà phổ biến nhất ở Việt Nam, trở thành văn hóa ẩm thực đặc trưng và cũng là loại được nhiều thế hệ yêu thích. Trà xanh thường được trồng tại một số vùng trung du có khi hậu mát mẻ, điều kiện khi hậu phù hợp như Thái Nguyên,Phú Thọ, Hòa Bình,Yên Bái, Sơn La, Bảo Lộc (Lâm Đồng) trong đó Thái Nguyên được coi là đất tổ của dòng trà trung du này . Trà xanh nổi tiếng ở nước ta còn có trà Shan Tuyết cổ thụ, và các loại trà xanh ướp hương hoa như: trà sen Tây Hồ, trà lài, trà bưởi, trà sói, trà ngâu…
Chế biến
Trà xanh được chế biến ngay sau khi hái lá chè, chỉ trải qua 4 giai đoạn:phơi héo, lên hương, dệt men,vò chè, đánh khô.
Trà xanh có chế biến bằng cả phương pháp thủ công và hiện đại. Phơi khô dưới ánh nắng, sao khô trên chảo, rổ, than hoa là những phương pháp thủ công phổ biến. Sấy khô trong lò, thùng quay hoặc hấp là những phương pháp phổ biến hiện đại.
Công dụng
Quy trình sản xuất trà như trên giúp cho trà xanh giữ lại được lượng caffeine, polyphenol và các chất hữu cơ dễ bay hơi trong lá trà. Nói chung là trà xanh giữ lại được nhiều dược tố tốt, trong đó vitamin C chỉ có trong trà xanh, trà xanh cũng có chứa một chất kim rất hiếm là mangan (trà ô long cũng có một ít)
Uống trà xanh hằng ngày không chỉ giúp tỉnh táo sảng khoá,tăng cường trí nhớ mà còn giúp lọc thận lợi tiều, kháng khuẩn, giảm cholesterol ,chống viêm, ổn định huyết áp ,giải độc gan, hỗ trợ phòng chống ung thư
2-Trà Ô Long
Trà Ô Long được gọi chung nhóm “thanh trà” là một nhóm lớn những loại trà được lên men khoảng từ 20% đến 80%. Mức độ oxy hóa này phản ánh qua màu lá trà cũng như màu nước trà pha từ xanh sang vàng, hổ phách, nâu đỏ
Loại trà này ngày nay rất được ưa chuộng bởi có sự đa dạng về hương vị. Trà trở nên ngọt ngào hơn hẳn so với trà xanh, vị chát rất mềm mại. Nó có thể có hương giống gỗ, hạt dẻ, hương hoa hoặc trái cây, hương mật ong…rất hấp dẫn.
Lâm Đồng hiện là vùng đất sản xuất trà Ô Long chất lượng cao đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Sản lượng tập trung ở các giống Oolong Thuần chủng, Oolong Tứ Quý, Kim Tuyên, Thúy Ngọc ; các giống này đều thuộc giống trà Oolong Cao Sơn,giống trà núi cao lá nhỏ, giàu phẩm chất xuất xứ từ Đài Loan.
Ngoài ra, người tiêu dùng trong nước còn tiêu thụ các sản phẩm nhập khẩu như Oolong Cao Sơn Đài Loan, trà Bao Chủng Đài Loan, Bạch Hào Oolong, Oolong Phúc Kiến, Thiết Quan Âm, Đại Hồng Bào,…
Chế biến:
Trà Oolong trải qua quá trình chế biến phức tạo nhất trong các loại trà, với đầy đủ 5 giai đoạn. Trong giai đoạn làm dập và oxy hóa được lặp lại để tạo nên hương vị mong muốn. Một mẻ trà ô long thành công mất ít nhất 32 giờ chế biến liên lục.
Trong quá trình chế biến này, caffeine trong lá trà liên kết với tanin tạo thành nên Tanat caffein tan trong nước nóng tạo ra hương thơm và giúp cho trà ô long trở nên mềm mại, ít đắng chát (tanin có vị chát, caffein vị đắng).
Công dụng:
Trà Oolong không chỉ đa dạng về mùi hương giúp nâng cao trải nghiệm thưởng thức trà mà hương thơm của trà còn giúp giải tỏa căng thẳng và có lợi cho hô hấp, do vậy trà được sử dụng nhiều trong giao tế và thưởng lãm.
Trà Oolong với những phản ứng từ quá trình oxy hóa còn tạo ra nhiều dược chất có lợi. Uống trà Oolong hằng ngày được ghi nhận là có khả năng nâng cao sức đề kháng, phòng chống suy thận, giảm nguy cơ mắc bệnh răng miệng ,hỗ trợ tăng cường sức đề kháng ,ngừa cảm cúm và hỗ trợ giảm hấp thụ chất béo
3-Trà Đen
Trà đen (Hồng Trà – Black Tea) .Lá trà được oxy hóa hoàn toàn nên trà thành phẩm có màu đen, thơm nồng, nước trà pha ra có màu đỏ nâu, vị ngọt hậu đặc trưng. Trong khi trà xanh chỉ giữ được hương trong vòng 1 năm thì trà đen vẫn giữ được hương thơm của nó trong nhiều năm,tại nhiều nơi ở Trung Quốc trà đen đóng bánh,càng để lâu giá trị càng cao, có những bánh trà có tuổi thọ lên tới hàng trăm năm. Đó là nguyên nhân ngày xưa Trung Quốc buôn bán trà đen khắp nơi sang Mông Cổ, Âu Châu theo con đường Tơ Lụa.
Trà đen không phổ biến tại Việt Nam, tuy nhiên đây là một dòng trà rất được ưu chuộng tại các nước Phương Tây, trà đen thường được lấy nguyên liệu từ dòng trà trung du thân thấp,tuy vậy tại một số tỉnh ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam, trà đen được lấy nguyên liệu từ dòng trà Shan Tuyết cổ thụ,đây là dòng trà có phẩm giá cao, rất được các “quý” khách hàng ưa chuộng.
Chế biến:
Lá trà được trải qua lần lượt 5 bước của quy trình làm trà, trà được Oxy hóa hoàn toàn. Trà đen là loại trà duy nhất không áp dụng kỹ thuật diệt men. Quá trình oxy hóa trà xảy ra các phản ứng hóa học, pholyphenol giảm 90% đồng thời sinh ra thành phần Theaflavin và Thearubigins. Nếu tỷ lệ Theaflavin và Thearubigins hòa hợp sẽ cho ra nước trà màu đỏ tươi sáng.
Các nước sản xuất trà đen nhiều nhất hiện nay là Ấn Độ,Đài Loan, Trung Quốc, Srilanca, thị trường tiêu thụ chính là Châu Âu và Mỹ
Công dụng:
Trà Đen được biết đến với tác dụng làm ấm, hỗ trợ tiêu hóa và đặc biệt là tăng cường chức năng tim mạch.
Trà Đen cũng biết đến với khả năng giải độc do có chứa nhiều alkali có thể hấp thụ kim loại nặng cùng kiềm sinh vật, đồng thời cũng lắng đọng phân giải. Điều này là một tin vui với người dùng bởi nguồn nước và thực phẩm hiện nay đang ngày càng bị nhiễm bẩn.
4-Trà trắng
Trà trắng (Bạch Trà) là loại trà hoàn toàn được làm bằng búp non từ giống trà lá to trồng ở vùng núi cao, quanh năm mây mù bao phủ, cây trà thân cao, ít sâu bệnh. Vùng trà Shan Tuyết cổ thụ Tây Bắc là điều kiện thích hợp để làm trà trắng.
Gọi là trà trắng vì có lớp lông mao bao phủ trên búp trà, màu trắng tinh khôi, đẹp mắt. Nước trà màu vàng nhạt, rất trong, vị trà và hương thơm tinh tế, tuy nhiên một lưu ý với dòng trà này không nên ngâm với thời gian lâu quá sẽ gây vị đắng. Vì chỉ lấy búp trà để chế biến nên thành phần dược chất quan trọng trong trà rất cao, giá trà thành phẩm cũng đắt hơn so với các loại trà khác (một lạng trà khô phải hái rất nhiều búp trà mới có được).
Chế biến:
Trà trắng có quy trình chế biến tối giản nhất trong các loại trà, chỉ đơn giản là làm héo và hong khô dưới bóng râm. Mục đích của việc hạn chế gia công là để giữ lại hình thức trắng muốt của bạch trà, việc sử dụng nhiệt độ cao có thể làm cháy các mao trà vốn nhạy cảm.
Ngày nay, bạch trà có thể được làm thủ công bằng cách hong khô dưới bóng cây. Cách làm này cần nhiều thời gian nên búp trà có xảy ra tình trạng lên men từ 10-20%, nước trà sẽ vàng hơn. đa phần bạch trà hiện nay đều được làm khô bằng máy nên độ lên men rất đều và thấp, chỉ ở khoảng 8-10%.
Công dụng:
Cách chế biến đơn giản giúp trà trắng giữ lại nhiều dược chất có lợi giống như trà xanh. Búp trà luôn được đánh giá cao nhờ có chứa nhiều chất dinh dưỡng quan trọng, các loại vitamin, polyphenol cao nhất trên 37%, theanin cũng cao nhất (theanin là chất tạo cảm giác thăng hoa còn gọi là “trà khí” khi uống trà).
Trà trắng được đánh giá có khả năng hạn chế cholesterol, chống oxy hóa tăng cường hệ miễn dịch và ngăn chặn tế bào ung thư.
5-Trà Phổ Nhĩ
Trà Phổ Nhĩ là loại trà được đóng thành dạng bánh, được làm từ lá của những cây trà cổ thụ hay mọc ở vùng núi Tây Bắc và Vân Nam Trung Quốc, và một phần từ các vùng núi phía bắc Việt Nam. Phổ Nhĩ là tên một thị trấn, nơi trung tâm giao thương của những người buôn trà, từ đây trà được vận chuyển đi khắp nơi, từ các tỉnh nội địa, sang Tây Tạng, Châu Âu, Việt Nam, Miến Điện…
Trà Phổ Nhĩ thường được ép thành các dạng khối, phổ biến là dạng bánh và dạng viên. Nước trà pha có màu đỏ hoặc nâu đen, mùi gỗ mục, mùi đất, vị mịn màng, trên bề mặt thường có lớp màng mỏng như giọt dầu. Khác với những loại trà khác phải uống nhanh, Phổ Nhĩ càng để lâu càng có hương vị thơm ngon.
Hiện nay, một số cơ sở ở Việt Nam tại Hà Giang,Sơn La đã làm trà Phổ Nhĩ từ lá trà cổ thụ. Tuy nhiên người tiêu dùng trong nước vẫn chuộng trà Phổ Nhĩ Vân Nam, Phổ Nhĩ Đài Loan.
Chế Biến:
Có 2 loại trà Phổ Nhĩ là Phổ Nhĩ sống và Phổ Nhĩ chín.
Trà Phổ Nhĩ sống có cách chế biến đơn giản, trà sau khi vò thì được hong khô bằng cách phơi nắng, sau đó được đóng bánh; men trà vẫn còn nên trà tiếp tục oxy hóa trong quá trình lưu trữ. Thường thì trà Phổ Nhĩ sống để tầm 10 năm mới uống sẽ có hương vị ngon nhất, ngửi có mùi trầm hương.
Trà Phổ Nhĩ chín thì sau khi làm khô không đóng bánh ngay mà trải qua quá trình ép lên men (chất đống và ủ ướt) trong khoảng 30 đến 50 ngày. Trà Phổ Nhĩ chín sau 3 năm uống sẽ có hương vị tốt nhất, ngửi có mùi trà chín, vị ngọt hậu.
Công dụng:
Trà Phổ Nhĩ được làm từ lá trà bản to, lá dày chứa nhiều vi chất và hàm lượng tinh bột cao nên quá trình lên men diễn ra hoàn toàn, tạo nên nhiều dược chất có lợi.
Như đã nói ở phần trên, ngoài 5 loại trà phổ biến thì còn một loại trà nữa ít gặp là trà vàng (Hoàng trà).
Trà vàng là một loại trà lên men nhẹ có lịch sử lâu đời ở Trung Quốc. Ngay từ giữa triều đại nhà Đường, trà vàng đã bắt đầu được sản xuất tại tỉnh An Huy. Đặc điểm của loại trà này là nước trà màu vàng, lá trà màu vàng và hương thơm thanh lịch với hương vị êm dịu và tươi mát. Đối với nhiều người không quen thuộc với trà vàng sẽ được coi là trà xanh hỏng hoặc hết hạn.
Quy trình pha trà vàng tương tự như trà xanh, nhưng với một bước bổ sung độc đáo là héo vàng. Công đoạn này đề cập đến việc lá trà sau khi được sấy diệt men và vò, cán hoặc cuộn; khối trà này được bọc bằng trong miếng vải hoặc giấy đặc biệt để ố vàng, có thể được lặp đi lặp lại nhiều lần trong một khoảng thời gian.
Ngày xưa, Hoàng trà chủ yếu dành cho vua quan. Ngày nay, bạn vẫn có thể mua được Hoàng trà ở Trung Quốc, mặc dù loại trà này ngày càng hiếm và có giá đắt đỏ.